Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Đông Phương Sóc
bạc đen 泊顛
tt. trắng và đen, xấu và tốt, như đen bạc, dịch chữ hắc bạch 黑白. Lòng thế bạc đen dầu nó biến, ta thìn nhân nghĩa chớ loàn đan. (Bảo kính 139.7). Mặc Tử thiên Thiên chí trung ghi: “Muốn lường xét vương công, đại nhân, khanh, Đại phu trong thiên hạ là nhân hay bất nhân thì cũng có khác gì việc phân rõ trắng đen” (將以量度天下之王公大人卿大夫之仁與不仁,譬之猶分黑白也). Đông Phương Sóc đời Hán trong Thất Gián phần Oán thế viết: “vui với cái thói quen hàng ngày mà che lấp mất cái cao viễn chừ, ai biết xét đâu là đen là trắng” (愉近習而蔽遠兮,孰知察其黑白).
lưới trần 䋥塵
dt. dịch chữ trần võng 塵網, ý nói con người sống trên đời luôn bị nhiều trói buộc, giống như con cá bị mắc vào lưới, cho nên những hệ luỵ cuộc đời được gọi là lưới trần. Đông Phương Sóc trong bài Dữ hữu nhân thư có câu: “Chớ để cho lưới trần giàm danh trói gò, sung sướng cười hoài, du chơi khắp thập châu tam đảo.” (不可使塵罔名韁拘鎖,怡然長笑,脱去十洲三島 bất khả sử trần võng danh cương câu toả, di nhiên trường tiếu, thoát khứ thập châu tam đảo). Đào Uyên Minh trong bài Quy viên điền cư có câu: “Rơi nhầm vào lưới trần, thoắt cái ba mươi năm.” (誤落塵網中, 一去三十年 ngộ lạc trần võng trung, nhất khứ tam thập niên). Ngại ở nhân gian lưới trần, thì nằm thôn dã miễn yên thân. (Thuật hứng 60.1)‖ Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân, lưởng thưởng chưa lìa lưới trần. (Mạn thuật 33.2).
Phương Sóc 方朔
dt. đc. tức Đông Phương Sóc (154 tcn-93 tcn), họ trương, tự là mạn thiến, là một tác gia lớn đời Hán, tính vốn hài hước, ăn nói lưu loát, thường pha trò trước mặt vua, nhưng lại trực ngôn can gián. Sau ông trở thành một nhân vật trong truyền thuyết Trung Hoa với tích Đông Phương Sóc thâu đào. Sách Hán Vũ Cố Sự ghi: ngày lễ thọ hán vũ đế, trước cung điện có ba con chim xanh từ trên trời bay xuống, vũ đế không biết là chim gì. Đông Phương Sóc mới bảo: ‘đó là ba con thanh loan của Tây Vương Mẫu, Vương Mẫu chắc sắp đến giờ.’ quả nhiên Vương Mẫu đến tặng đào tiên mừng thọ vua. Vua định lấy hạt trồng, thì Vương Mẫu bảo: ‘loại đào này ba ngàn năm mới ra quả, chỗ này đất xấu, trồng không được’. Đoạn quay sang trỏ Phương Sóc nói: ‘hắn đã ba lần ăn trộm đào tiên của ta rồi đấy’’. Truyền thuyết sau còn cho rằng Đông Phương Sóc vì ăn đào mà sống một vạn tám ngàn tuổi, nên được coi là Thọ Tinh (ông Thọ). Yến thửa Dao Trì đà có hẹn, chớ cho Phương Sóc đến lân la. (Đào hoa thi 231.4, 232.1).
đuốc 燭
◎ Nôm: 𤒘 Đọc theo âm THV. Âm HTC: tjuk (Lý Phương Quế). AHV: chúc. Ss đối ứng tiəm, diəm (23 thổ ngữ Mường) [NV Tài 2005: 217]. Chứng tỏ, “đuốc” gốc Hán (âm THV), “diêm” gốc Hán Việt-Mường (焰火 AHV: diệm hoả), tiếng Việt chỉ còn bảo lưu “diêm” ở nghĩa “đồ đánh lửa” (diêm sinh, diêm tiêu) [LN Trụ 1959: 132].
dt. bó củi dùng để đốt sáng. Bốn bể nhẫn còn mong đuốc đốt, dầu về dầu ở mặc ta dầu. (Bảo kính 154.7). Sách Nhĩ Nhã chú sớ có câu: “Bốn mùa hoà thuận là đuốc ngọc, chua rằng: đạo chiếu như ánh sáng, khiến xuân vì thế nảy nở, hè vì thế lớn đầy, thu vì thế thâu tàng, đông vì thế an ổn.” (四時和謂之玉燭注道光照春為發生夏為長贏秋為收成冬為安寧). Sách Từ Nguyên giải thích rằng đức của vua như ngọc mà sáng như đuốc, có thể gây điềm lành khiến cho khí hậu thuận hoà. Đông Phương Sóc truyện có đoạn: “lấy rồng ngậm đuốc để chiếu cửa trời, đời trị thì lửa sáng, đời loạn thì lửa tối”. [ĐDA: 798]. Phiên khác: đúc chuốt: “xây đắp, sửa sang cho đẹp” (TVG, Schneider, PL)‖ Cầm đuốc chơi đêm. (Vãn xuân 195.7)‖ (Tích cảnh thi 204.4, 205.1). x. cầm đốc chơi đêm, bỉnh chúc dạ du.
ẩn cả 隱嘏 / 隱奇
dt. HVVT <Nho> dịch chữ đại ẩn 大隱. Ẩn cả lọ chi thành thị nữa, nào đâu là chẳng đất nhà quan. (Ngôn chí 17.7)‖ (Tự thán 103.8). Đông Phương Sóc đời Tây Hán có câu hát rằng: “ngoi lên ngụp xuống trong cõi tục, lánh đời ở cửa kim mã. Trong cung khả dĩ lánh đời mà bảo toàn thân mạng, hà tất cứ phải là dưới lều cỏ ở chốn núi sâu” (陸沈於俗,避世金馬門。宫殿中可以避世全身,何必深山之中,蒿廬之下). Vương Khang Cư đời Đông Tấn trong bài Phản chiêu ẩn thi có câu: “tiểu ẩn ẩn rừng đầm, đại ẩn ẩn triều đình” (小隱隱陵藪,大隱隱朝市). Bạch Cư Dị đời Đường trong bài Trung ẩn có câu: “đại ẩn ở triều đình, tiểu ẩn ẩn bên gò. Bên gò thì lặng lẽ, triều đình thì ầm ĩ. Chẳng bằng làm trung ẩn, ẩn ở trong dinh quan” (大隱住朝市,小隱入丘樊。丘樊太冷落,朝市太囂喧。不如作中隱,隱在留司官). Lại có những câu như “tiểu ẩn ẩn ngoài nội, trung ẩn ẩn thành thị, đại ẩn ẩn triều đình” (小隱隱于野,中隱隱于市,大隱隱于朝 tiểu ẩn ẩn vu dã, trung ẩn ẩn vu thị, đại ẩn ẩn vu triều).